Thuở xưa, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành La-duyệt-kỳ. Bấy giờ, Điều-đạt và vua A-xà-thế bàn bạc với nhau tìm cách hại đức Phật và chúng tăng. Nhà vua ra lệnh nhân dân trong nước không phụng thờ Phật, không cúng dường chúng tăng đi khất thực. Các vị trưởng lão như Xá-lợi-phất, […]
Thuở xưa, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành La-duyệt-kỳ. Bấy giờ, Điều-đạt và vua A-xà-thế bàn bạc với nhau tìm cách hại đức Phật và chúng tăng. Nhà vua ra lệnh nhân dân trong nước không phụng thờ Phật, không cúng dường chúng tăng đi khất thực. Các vị trưởng lão như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Tu-bồ-đề và các trưởng lão ni như Ba-hòa-đề đều dẫn đệ tử đi đến các nước khác, chỉ còn đức Phật và năm trăm vị a-la-hán ở lại núi Kỳ-xà-quật.
Điều-đạt đến bàn với vua A-xà-thế:
– Hôm nay các đệ tử Phật đi nơi khác hết rồi, chỉ còn năm trăm người ở bên cạnh ông ấy thôi. Xin bệ hạ ngày mai thỉnh Phật vào thành cúng dường, tôi sẽ cho năm trăm thớt voi uống rượu say, đợi khi ông ta vào thành sẽ thả chúng ra giày xéo, diệt sạch tất cả. Lúc đó, tôi sẽ lên làm Phật, giáo hóa thế gian.
Nghe nói thế, vua A-xà-thế rất vui mừng nên đồng ý, bèn đến chỗ đức Phật cúi đầu đảnh lễ thưa:
– Kính thưa Ngài! Ngày mai trẫm sắm sanh phẩm vật đạm bạc cúng dường, cúi xin Thế Tôn và chúng đệ tử quang lâm đến nội cung thọ trai.
Đức Phật biết rõ âm mưu của họ, nhưng vẫn đáp:
– Tốt lắm! Sáng mai ta sẽ đến.
Vua chào rồi ra về. Ông đến nói với Điều-đạt là đức Phật đã nhận lời, hãy chuẩn bị cho voi uống rượu say, đợi thời gian đến.
Hôm sau, đến giờ thọ trai, đức Phật cùng năm trăm vị a-la-hán vào thành. Đột nhiên năm trăm con voi say xuất hiện, gầm rống, giương vòi tiến đến, tường vách bị húc đổ, cây cối ngã rạp, cả thành kinh hoàng, hỗn loạn. Năm trăm vị a-la-hán bay lên hư không, chỉ có A-nan đứng bên cạnh đức Phật. Khi ấy, voi say giương vòi xông về phía đức Phật. Ngài liền đưa bàn tay lên, từ năm ngón tay tức thời hóa thành năm trăm con sư tử chúa, cùng gầm lên chấn động khắp trời đất. Đàn voi say chợt khụy chân, quỳ xuống không dám ngẩng đầu lên. Khi tỉnh rượu, những giọt lệ hối hận lăn dài trên khuôn mặt các con vật kia, thật đáng thương!
Nhà vua và quan dân vô cùng kính sợ. Đức Thế Tôn cùng các vị a-la-hán chậm rãi tiến vào cung điện thọ trai, chú nguyện.
Nhà vua thưa đức Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Bởi tâm tính ngu tối, con tin theo lời sàm tấu của kẻ ác, gây tội ngũ nghịch, mưu đồ bất chánh. Xin Ngài rủ lòng từ bi tha thứ cho sự ngu muội của con!
Đức Thế Tôn dạy vua A-xà-thế và cả đại chúng:
– Trong thế gian có tám việc làm tăng trưởng sự phỉ báng đều do danh tiếng và lợi dưỡng, đến nỗi phạm tội lớn muôn kiếp khó thoát. Tám việc đó là: lợi, suy, vinh, nhục, khen, chê, vui, khổ. Từ xưa tới nay hiếm có người thoát sự mê hoặc của tám điều này.
Đức Thế Tôn lại nói bài kệ:
Chuyện người phỉ báng nhau
Xưa nay đều luôn có
Cười chê kẻ lắm lời
Chê luôn người ít nói
Kẻ trung chánh nhu hòa
Có người nào tránh khỏi?
Rắp tâm hủy bậc thánh
Không thể nào thành công
Hết chê rồi lại khen
Chỉ vì danh và lợi.
Người được bậc trí khen
Mới hiền tài chân chính.
Người trí thường giữ giới
Không có điều phỉ báng
Như la-hán thanh tịnh
Không ai dám vu khống
Được chư thiên tán thán
Phạm, Thích đều kính thờ!
Nói kệ xong, đức Phật kể câu chuyện:
– Thuở xưa, có một quốc vương nọ thích ăn thịt chim nhạn. Ông thường ra lệnh cho thợ săn hằng ngày giăng lưới bắt chim nhạn. Một hôm, nhạn chúa dẫn năm trăm con bay xuống kiếm ăn. Không ngờ nhạn chúa sa lưới, bị thợ săn bắt được. Cả bầy nhạn hốt hoảng bay lên, cứ lượn mãi không chịu bỏ đi. Nhưng có một con bám sát theo nhạn chúa, không sợ cung tên, suốt ngày đêm kêu gào bi thảm, miệng chảy ra máu. Cảm động tình nghĩa của chim nhạn, người thợ săn thả chim chúa trở về với đàn. Thấy chim chúa được thả, cả đàn nhạn vô cùng mừng rỡ bay lượn chung quanh.
Người thợ săn trở về cung tâu việc này lên nhà vua. Nhà vua rất cảm động, từ đó bỏ sở thích ăn thịt chim nhạn.
Kết thúc câu chuyện, đức Phật bảo nhà vua:
– Đại vương biết không! Chim nhạn chúa thuở ấy nay chính là ta. Con chim nhạn bay theo là A-nan. Đàn nhạn năm trăm con nay là năm trăm vị A-la-hán. Ông vua thích ăn thịt chim nhạn nay chính là đại vương. Người thợ săn là Điều-đạt. Từ nhiều đời đến nay, ông ấy luôn tìm cách hại ta. Nhờ năng lực từ tâm, nên ta luôn được an ổn, không có lòng oán thù kẻ ác, tinh tấn tu tập cho đến khi thành Phật.
Nghe đức Phật dạy xong, vua và quần thần đều tỏ ngộ.
(Trích từ kinh Pháp cú thí dụ – TT. Thích Thiện Thuận và ĐĐ. Thích Nguyên Trang dịch)